Abhnvn
Cặc nhỏ
Trung tuần tháng 8/1952, thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đi gần 4.000 dặm tới Moscow để gặp nguyên soái Liên Xô Joseph Stalin. Thủ tướng Chu đại diện cho lãnh đạo tối cao Trung Quốc Mao Trạch Đông. Hai cường quốc Xã Hội Chủ Nghĩa là đồng minh vào thời điểm đó, nhưng không phải là quan hệ bình đẳng. Liên Xô là siêu cường, Trung Quốc phụ thuộc để được hỗ trợ kinh tế và thiết bị quân sự. Hai năm trước, chủ tịch Mao và nguyên soái Stalin đã liên kết, ủng hộ lãnh đạo Triều Tiên Kim Nhật Thành tấn công xuống miền Nam. Hy vọng của họ rất cao, rằng quân đội Triều Tiên được trang bị hiện đại, sẽ nhanh chóng thống nhất bán đảo. Ngay cả khi Hoa Kỳ can thiệp giúp đỡ Hàn Quốc, nguyên soái Stalin vẫn đánh điện cho chủ tịch Kim nói rằng: “Không nghi ngờ gì, trong thời gian ngắn nữa, những kẻ can thiệp sẽ bị đánh bại hoàn toàn.”
SỰ CHIA CẮT BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
Mọi thứ đã không đi theo kế hoạch của các lãnh đạo Xô - Trung. Mùa thu 1950, khi quân đội Hoa Kỳ do tướng Douglas MacArthur chỉ huy chiếm gần hết Triều Tiên, chuẩn bị thống nhất bán đảo, thì Trung Quốc can thiệp. Đến giữa năm 1951, một thế bế tắc hình thành xung quanh vĩ tuyến 38, đường phân định giữa Triều Tiên với Hàn Quốc trước chiến tranh. Đàm phán bắt đầu vào tháng 7 năm đó. Mục đích là đạt được một hiệp định đình chiến, và tạo tiền đề cho các cuộc thảo luận về tương lai bán đảo.
Khi thủ tướng Chu Ân Lai đến Moscow mùa hè năm 1952, tình hình đang trở nên tồi tệ đối với liên quân Trung – Triều. Các cuộc không kích của Hoa Kỳ gây thiệt hại nặng cho cơ sở hạ tầng ở miền Bắc. Lương thực còn rất ít và khó kiếm. Số lượng binh sỹ tử thương tăng lên mỗi ngày. Vĩ tuyến 38 trở thành con đườngmáu. Tháng 2/1952, chủ tịch Kim nói với chủ tịch Mao rằng, Triều Tiên không muốn tiếp tục chiến tranh. Khoảng 5 tháng sau, chủ tịch Kim muốn nguyên soái Stalin can thiệp, để đình chiến diễn ra sớm nhất có thể.
Suốt chiến tranh Lạnh, thủ tướng Chu nổi tiếng là nhà ngoại giao điềm tĩnh. Tuy nhiên, đến Moscow với tư cách là người mang tin xấu, ông thấy không thoải mái. Nhiệm vụ của ông là đánh tiếng về một hiệp định đình chiến. Liên Xô và Trung Quốc đứng sau cuộc chiến này của Triều Tiên, không muốn mọi chuyện dừng lại khi chưa đạt được mục tiêu.
Cuộc họp diễn ra vào ngày 20/8/1952. Nguyên soái Stalin muốn biết liệu Trung Quốc và Triều Tiên còn tiềm lực để chiến đấu với Hoa Kỳ nữa hay không. Thủ tướng Chu nói rằng, liên quân Trung-Triều và liên quân Mỹ-Hàn, sức mạnh ngang nhau, không bên nào đủ sức để nuốt chửng bên kia, nên việc giải phóng miền Nam bán đảo Triều Tiên là điều không thể. Giới lãnh đạo Triều Tiên cũng dao động về mục tiêu trên.
Theo 1 số tài liệu được Nga giải mật, trong cuộc họp, thủ tướng Chu nói rằng, ý định của chủ tịch Mao là kéo dài cuộc chiến, để Hoa Kỳ phân tâm và suy yếu. Trung Quốc có vẻ không quá lo ngại về thương vong của người dân 2 miền Triều Tiên, cũng như thương vong của Chí Nguyện Quân.
Một tháng sau, thủ tướng Chu lại thảo luận với nguyên soái Stalin về khả năng chấp nhận ngừng bắn. Nguyên soái Stalin đã bác bỏ ý tưởng trên.
Các cuộc giao tranh vẫn diễn ra ác liệt trong 10 tháng tiếp theo, trước khi hai bên đồng ý đình chiến, với những điều kiện bất lợi hơn đối với Trung Quốc và Liên Xô, so với những gì thủ tướng Chu và nguyên soái Stalin đã thảo luận. Trong thời gian này, hàng chục nghìn người chết và hàng chục nghìn người khác bị thương. Khi cuộc chiến dừng lại, hơn 36.000 quân nhân Mỹ thiệt mạng và hơn 103.000 quân nhân khác bị thương. Trung Quốc mất và bị thương khoảng một triệu Chí Nguyện Quân. Bốn triệu người ở cả 2 miền Triều Tiên đã thiệt mạng - chiếm 10% dân số toàn bán đảo.
Hiệp định đình chiến đã chấm dứt đổ máu, thiết lập một khu phi quân sự cùng cơ chế giám sát và hòa giải. Chiến tranh Triều Tiên đã không chính thức kết thúc. Các vấn đề chính trị lớn vẫn không được giải quyết. Các cuộc giao tranh, đột kích, pháo kích và đấu súng gần như đã không còn xảy ra. Chúng chưa bao giờ leo thang thành chiến tranh toàn diện. Hiệp định đình chiến được duy trì, và 70 năm sau, nó vẫn đang được duy trì.
Ngày nay, bán đảo Triều Tiên là một điểm căng thẳng địa chính trị rất cao. Miền Bắc, tức Triều Tiên được quản lý bởi chế độ cha truyền con nối. Lãnh tụ nắm toàn bộ quyền lực. Sự tồn vong của cả dân tộc nằm trong tay 1 người. Ngày nay, ký ức về cuộc chiến 70 năm trước ngày càng trở nên xa vời. Những cựu chiến binh năm xưa ở cả 2 miền, không nhiều người còn sống. Hiệp định đình chiến đã tạo ra 1 giai đoạn hòa bình, cho phép Hàn Quốc phát triển kinh tế với tốc độ kinh ngạc, song song đó là 1 nền dân chủ tự do ổn định. Dù còn 1 số sai sót, nhưng về cơ bản, hiệp định đình chiến đã thành công.
SỰ CHIA CẮT BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
Mọi thứ đã không đi theo kế hoạch của các lãnh đạo Xô - Trung. Mùa thu 1950, khi quân đội Hoa Kỳ do tướng Douglas MacArthur chỉ huy chiếm gần hết Triều Tiên, chuẩn bị thống nhất bán đảo, thì Trung Quốc can thiệp. Đến giữa năm 1951, một thế bế tắc hình thành xung quanh vĩ tuyến 38, đường phân định giữa Triều Tiên với Hàn Quốc trước chiến tranh. Đàm phán bắt đầu vào tháng 7 năm đó. Mục đích là đạt được một hiệp định đình chiến, và tạo tiền đề cho các cuộc thảo luận về tương lai bán đảo.
Khi thủ tướng Chu Ân Lai đến Moscow mùa hè năm 1952, tình hình đang trở nên tồi tệ đối với liên quân Trung – Triều. Các cuộc không kích của Hoa Kỳ gây thiệt hại nặng cho cơ sở hạ tầng ở miền Bắc. Lương thực còn rất ít và khó kiếm. Số lượng binh sỹ tử thương tăng lên mỗi ngày. Vĩ tuyến 38 trở thành con đườngmáu. Tháng 2/1952, chủ tịch Kim nói với chủ tịch Mao rằng, Triều Tiên không muốn tiếp tục chiến tranh. Khoảng 5 tháng sau, chủ tịch Kim muốn nguyên soái Stalin can thiệp, để đình chiến diễn ra sớm nhất có thể.
Suốt chiến tranh Lạnh, thủ tướng Chu nổi tiếng là nhà ngoại giao điềm tĩnh. Tuy nhiên, đến Moscow với tư cách là người mang tin xấu, ông thấy không thoải mái. Nhiệm vụ của ông là đánh tiếng về một hiệp định đình chiến. Liên Xô và Trung Quốc đứng sau cuộc chiến này của Triều Tiên, không muốn mọi chuyện dừng lại khi chưa đạt được mục tiêu.
Cuộc họp diễn ra vào ngày 20/8/1952. Nguyên soái Stalin muốn biết liệu Trung Quốc và Triều Tiên còn tiềm lực để chiến đấu với Hoa Kỳ nữa hay không. Thủ tướng Chu nói rằng, liên quân Trung-Triều và liên quân Mỹ-Hàn, sức mạnh ngang nhau, không bên nào đủ sức để nuốt chửng bên kia, nên việc giải phóng miền Nam bán đảo Triều Tiên là điều không thể. Giới lãnh đạo Triều Tiên cũng dao động về mục tiêu trên.
Theo 1 số tài liệu được Nga giải mật, trong cuộc họp, thủ tướng Chu nói rằng, ý định của chủ tịch Mao là kéo dài cuộc chiến, để Hoa Kỳ phân tâm và suy yếu. Trung Quốc có vẻ không quá lo ngại về thương vong của người dân 2 miền Triều Tiên, cũng như thương vong của Chí Nguyện Quân.
Một tháng sau, thủ tướng Chu lại thảo luận với nguyên soái Stalin về khả năng chấp nhận ngừng bắn. Nguyên soái Stalin đã bác bỏ ý tưởng trên.
Các cuộc giao tranh vẫn diễn ra ác liệt trong 10 tháng tiếp theo, trước khi hai bên đồng ý đình chiến, với những điều kiện bất lợi hơn đối với Trung Quốc và Liên Xô, so với những gì thủ tướng Chu và nguyên soái Stalin đã thảo luận. Trong thời gian này, hàng chục nghìn người chết và hàng chục nghìn người khác bị thương. Khi cuộc chiến dừng lại, hơn 36.000 quân nhân Mỹ thiệt mạng và hơn 103.000 quân nhân khác bị thương. Trung Quốc mất và bị thương khoảng một triệu Chí Nguyện Quân. Bốn triệu người ở cả 2 miền Triều Tiên đã thiệt mạng - chiếm 10% dân số toàn bán đảo.
Hiệp định đình chiến đã chấm dứt đổ máu, thiết lập một khu phi quân sự cùng cơ chế giám sát và hòa giải. Chiến tranh Triều Tiên đã không chính thức kết thúc. Các vấn đề chính trị lớn vẫn không được giải quyết. Các cuộc giao tranh, đột kích, pháo kích và đấu súng gần như đã không còn xảy ra. Chúng chưa bao giờ leo thang thành chiến tranh toàn diện. Hiệp định đình chiến được duy trì, và 70 năm sau, nó vẫn đang được duy trì.
Ngày nay, bán đảo Triều Tiên là một điểm căng thẳng địa chính trị rất cao. Miền Bắc, tức Triều Tiên được quản lý bởi chế độ cha truyền con nối. Lãnh tụ nắm toàn bộ quyền lực. Sự tồn vong của cả dân tộc nằm trong tay 1 người. Ngày nay, ký ức về cuộc chiến 70 năm trước ngày càng trở nên xa vời. Những cựu chiến binh năm xưa ở cả 2 miền, không nhiều người còn sống. Hiệp định đình chiến đã tạo ra 1 giai đoạn hòa bình, cho phép Hàn Quốc phát triển kinh tế với tốc độ kinh ngạc, song song đó là 1 nền dân chủ tự do ổn định. Dù còn 1 số sai sót, nhưng về cơ bản, hiệp định đình chiến đã thành công.


