Bảo Đại kể về ngày đăng quang của ông
"Sau quyết định đó vài ngày, tòa Khâm Thiên Giám chọn được ngày hoàng đạo để làm lễ đăng quang cho tôi, đó là ngày mùng 8 tháng giêng năm 1926.
Trước hôm đó, tôi đến điện Cần Chánh để nhận các bảo vật truyền ngôi. Người ta vận cho tôi bộ triều phục để lên ngôi. Đó là chiếc áo cẩm bào của Đức Hoàng đế Gia Long khai sáng triều đại. Phẩm phục này được cất giữ như linh vật, gồm có áo bào vàng, có kết trân châu bảo ngọc hia lót lông mịn phía trong, và có đầy châu ngọc đính trên.
Một vị Đại thần trong tứ trụ triều đình đã đệ trình tôi chiếc bài vàng mang chữ Việt Nam Hoàng Đế để đeo ở bên vạt áo phải, một vị Đại thần khác thì đệ trình một cuốn kim sách để mở đầu thời đại, mà trên đó có danh hiệu của tôi, là Bảo Đại, có nghĩa là Triều đại của Huy Hoàng, Vĩ Đại.
Hai chữ này do tôi tự lựa chọn trong danh sách các tên hiệu cao khiết, đẹp đẽ, của tàng Văn chương, mà các quan bộ Học, lấy trong quốc khố đồ thư ra để trình tôi quyết định. Tôi thấy hai chữ Bảo Đại rất hợp với triều đại của tôi trong sứ mạng mà tôi sẽ đảm đương.
Sau đó, theo đúng lễ nghi, tôi phải đến một mình trước nhà Thái Miếu, lễ trước bàn thờ Đức Vua khai sáng Gia Long, mà tất cả các vị Hoàng đế kế tiếp, đều phải vào lạy khi lên ngôi, như một hình thức tuyên thệ.
Lễ đăng quang được cử hành vào sáng hôm sau, và ở điện Thái Hòa. Điện này quay lưng về hướng Bắc, để nhìn xuống hướng Nam, trước mặt có một sân chầu có cắm cờ ngũ hành, viền đuôi nheo, theo đúng nguyên lý về Dịch. Nóc điện được cất trên một rừng cây cột lim, trên đó rui, mè được xếp đặt nhịp nhàng vô cùng đồ sộ. Ngai được đặt ở chính giữa điện hơi cao về phía trước nhìn ra phía sân chầu. Nóc ngai có chiếc mui bằng gỗ chạm trổ hình rồng há miệng nhe nanh trông thật kinh khiếp. Thêm nhiều chữ nho kiểu chữ triện nổi bật lên, sơn son thếp vàng.
"Tất cả triều thần đều ở đây, ai cũng vận phẩm phục đại trào, từ hoàng thân quốc thích đến các quan đại thần, cộng chức thượng thặng. Những đuôi cánh chuồn trên mũ sa của họ lấp lánh trong ánh sáng ban mai một ngày rất đẹp trời, Tất cả đứng theo thứ tự phẩm trật của mình. Các hoàng tử, hoàng thân đứng về một phía, các quan thì đông nghịt ở phía sân chầu.
Khi tôi đã ngồi uy nghiêm đúng như nghi thức trên ngai, quan Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne vận lễ phục màu đen, trái ngược hẳn với màu sắc xanh đỏ của các vị triều thần, liền đọc một bài diễn văn rất trịnh trọng trong đó, nhân danh nước Pháp bảo hộ, ông kính chúc triều đại tôi là triều đại của thái bình, thịnh trị đầy hạnh phúc cho toàn thể nhăn dân.
Sau đó là lễ triều bái của các quan. Đầu tiên, các vị hoàng thân quốc thích đến trước Ngai cách khoảng mười lăm mét. Phần đông các vị đó đã có tuổi. Tất cả năm lần, họ lên gối xuống gối, đầu rập sát đất, râu trắng quét thềm. Lạy xong thì về chỗ cũ đứng. Tiếp theo đến lượt các quan Đại thần, cũng năm lạy trịnh trọng như vậy. Khi các vị ấy lễ xong, thì đến lượt tất cả các quan từ tam phẩm trở xuống, phủ phục tập thể. Họ lễ theo tiếng xướng của người bồi tế. Khi hô “Bái” thì tất cả đều sụp xuống sân chầu rất từ tôn thong thả, đầu sát đất. Khi hô “Hưng” thì họ lại ngửng lên để lên gối, để chờ nghe câu xướng Bái khác. Cứ thế nãm lần, và lễ triều bái này mang tính chất phục tòng, tôn kính tột bực. Mỗi khi họ phủ phục xuống đất, thì những tà áo, lòa xòa, như muốn tung bay rồi tỏa cả xuống đất như xụp xuống thành đông, không bốc cao lên được nữa.
Ở trên cao tôi nhìn xuống, quả là một cảnh tượng đáng chủ ý. Nó như chứa đựng một ý niệm thống trị của thể chế quân chủ, đè xuống khắp đại chúng. Năm ấy tôi mới mười hai tuổi. Tôi là Hoàng đế, và sanh ra để làm Hoàng đế. Chưa từng có lúc nào tôi lạc ra khỏi ý nghĩ đó. Trái lại tôi đã cố gắng nghiêm chỉnh làm tròn nhiệm vụ đã được trao phó cho tôi.
Khi lễ tất, súng ca-nông nổ nhiều phát báo cho toàn nhân dân Việt Nam triều đại mới của vị Tân quân.
Khi lễ tất, súng ca-nông nổ nhiều phát báo cho toàn nhân dân Việt Nam triều đại mới của vị Tân quân.
Tôi bước xuống ngai để lên một chiếc ngự liễn vẫn chờ sẵn ở cuối điện, để về ở điện Kiến Trung từ nay là chỗ ăn ở của tôi.