Tên lái súng làm giàu nhờ chiến tranh Ukraine là ai.
Tháng 11/1946, tại Việt Nam ông Trần Đại Nghĩa và các đồng nghiệp bắt tay vào nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu Bazoka của Mỹ. công việc không dễ dàng, thất bại liên tiếp nhưng không khiến ông nản chí. Cuối cùng, tháng 2/1947, cuộc thử nghiệm Bazoka thành công. Nhưng đến tháng 4/1947, đạn Bazoka mới thực sự ổn định. Mức đâm xuyên của đạn vừa chế tạo đạt độ sâu 75cm trên tường gạch, tương đương đạn Bazoka do Mỹ chế tạo, và bắt đầu sản xuất hàng loạt gửi đi các chiến trường. Sau đạn Bazoka, những năm 1948 – 1949, ông Trần Đại Nghĩa và các đồng nghiệp trong Cục Quân giới bắt đầu nghiên cứu và chế tạo loại súng có sức công phá mạnh – súng không giật SKZ. Đây là dòng vũ khí hiện đại, xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa của Nhật Bản hồi cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Súng đại bác SKZ 60 chế thử thành công, là loại vũ khí công đồn nặng khoảng 26kg, có thể tháo rời để mang vác, đầu đạn nặng khoảng 9kg, có thể xuyên thủng bê tông dày trên 60cm, khi bắn bắn ở cự ly tối ưu. SKZ 60 được ứng dụng ngay trên chiến trường và lần đầu lập chiến công xuất sắc, phá tan boong ke kiên cố của giặc pháp trong chiến thắng ở phố Ràng, chiến thắng phố Lu trong chiến dịch Lê Hồng Phong cuối năm 1949. Trung đoàn Thủ Đô, Đại đoàn 308 là đơn vị đầu tiên được trang bị SKZ trong chiến dịch Lê Hồng Phong, hủy diệt nhiều lô cốt kiên cố của giặc Pháp. SKZ đã làm Pháp khiếp sợ, phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống công sự, đồn bốt. “Cái thứ gây khó khăn cho chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bê tông dày 60cm là những quả đạn SKZ, mà người Việt chế tạo trong các hang núi ở Đông Dương. Chỉ cần vài quả là đã tiêu diệt được tháp canh của chúng tôi”, lính Pháp nói. Hàn Quốc năm 1946-1954 là một người nghèo, nghèo nàn lạc hậu hơn cả Việt Nam giai đoạn đó, cây súng trường cũng không biết chế tạo.
Sau 1954, với định hướng sáng ngời của Đảng ta, Việt Nam đã trở thành cường quốc xuất đĩ thay vì vũ khí, còn Hàn Quốc Chó Mỹ nhờ ánh sáng chói lói của Mỹ đã thành cường quốc kinh tế và xuất khẩu vũ khí tiếp nhận công dân Việt Nam qua làm chó cho Chó Mỹ
Năm 2022, Hàn Quốc đã trở thành lái súng doanh số vũ khí lớn nhì thế giới, đặc biệt nhắm đến khách hàng là các nước tại châu Âu - vốn trước đây thích dùng hàng Mỹ hoặc châu Âu. Vượt qua Mỹ 2022 về tốc độ tăng doanh thu. Theo Hãng tin Reuters, doanh số bán vũ khí của Hàn Quốc đã tăng từ 7,2 tỉ USD vào năm 2021 lên hơn 17 tỉ USD vào năm 2022 trong bối cảnh phương Tây tăng cường vũ khí cho Ukraine và căng thẳng gia tăng ở các điểm nóng khác. Trong khi doanh số Mỹ hơn 9 tỷ Trong đó thỏa thuận bán vũ khí trị giá 13,7 tỉ USD giữa Hàn Quốc và Ba Lan, một thành viên NATO, được đánh giá là nền tảng để Seoul chinh phục thị trường châu Âu.
"Czech, Romania, Slovakia, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva và những nước khác thường chỉ nghĩ đến việc mua các sản phẩm quốc phòng ở châu Âu, nhưng bây giờ họ có thể mua (vũ khí) với giá thấp hơn và giao nhanh chóng từ các công ty Hàn Quốc", ông Oh Kyahwan, giám đốc Công ty Hanwha Aerospace, nhận định về lợi thế của Seoul trong bối cảnh Đức, nhà cung cấp vũ khí lớn nhất châu Âu, không còn đáp ứng đủ nhu cầu.
Ba Lan trùm mua vũ khí mới gặp trùm bán vũ khí mới
Ba Lan đã quyết định mua thêm vũ khí từ Hàn Quốc, sau khi mua với giá 14 tỷ USD vào năm 2022. Tổng thống Yoon Suk Yeol đã tiết lộ thông tin sau cuộc gặp với Tổng thống Duda tại Warsaw ngày hôm qua 153/7/23, ông Duda không nói rõ loại vũ khí nào sẽ được mua lần này. Reuters cho biết các công ty Hàn Quốc đang đầu tư mạnh vào dây chuyền sản xuất hiện đại để có thể hoạt động 24/7. "Về cơ bản, chúng tôi có thể đáp ứng mọi đơn hàng", ông Cha Yong Su, quản lý sản xuất của Hanwha Aerospace, tự tin nói.
Dự kiến, 500/820 xe tăng và 300/672 khẩu pháo tự hành trong thỏa thuận sẽ được sản xuất tại các nhà máy ở Ba Lan, bắt đầu từ năm 2026.
Từ lợi thế tốc độ...
HIMARS Hàn Quốc, K239 Chunmoo Multiple Launch Rocket System, Ba Lan đặt mua 500 hệ thống HIMARS từ Mỹ mà do Mỹ bận phục vụ các đơn hàng HIMARS khác, nên Mỹ đã nhường 300 hệ thống này cho Hàn Quốc làm. Lợi thế khi làm Chó Mỹ là vậy. Được Long Đầu kéo đi theo kiếm ăn.
Một lý do thúc đẩy Warsaw lựa chọn Seoul trở thành đối tác nhập khẩu vũ khí là ưu thế về tốc độ sản xuất. Lô hàng đầu tiên gồm 10 xe tăng chủ lực K2 Black Panther và 24 khẩu pháo tự hành K9 Thunder đã được giao tới Ba Lan chỉ vài tháng sau khi thỏa thuận được ký kết. Sau đó không lâu, thêm 5 xe tăng và 12 khẩu pháo tiếp tục được bàn giao. Để so sánh, đơn hàng 44 xe tăng Leopard mà Hungary đặt hàng Đức từ năm 2018, đến nay, chưa có bất kỳ sản phẩm nào trong đơn hàng trên được bàn giao cho Budapest. Tốc độ sản xuất chậm chạp của ngành công nghiệp quốc phòng (CNQP) Đức khiến nhiều đối tác quay sang Hàn Quốc như một lựa chọn đầy hứa hẹn.
Ưu thế lớn của vũ khí Hàn Quốc là khả năng tương thích với hệ thống trang bị vũ khí của Mỹ và NATO. Điều đó có nghĩa là, khi mua vũ khí của Seoul, các nước EU-vốn có truyền thống dựa vào nguồn cung cấp vũ khí từ Mỹ-cơ bản sẽ không cần điều chỉnh hoặc thay đổi nền tảng hệ thống trang bị vũ khí hiện có. Nhờ đó, Hàn Quốc đã trở thành nhà cung cấp vũ khí lớn thứ ba cho NATO và các nước thành viên, chiếm 4,9% thị phần, theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI). Dẫu vậy, con số này còn thua xa vị trí thứ nhất của Mỹ (65%) và thứ hai của Pháp (8,6%).
Khả năng tương thích của các sản phẩm CNQP Hàn Quốc với các hệ thống vũ khí của Mỹ không chỉ là sự lựa chọn có chủ ý mà còn là hệ quả của việc chuyển giao công nghệ xây dựng tổ hợp công nghiệp quân sự của nước này từ đồng minh Mỹ.
Và điểm cộng của K-Defense
Hiệu quả về chi phí, thời gian giao hàng ngắn, hợp tác sản xuất và chuyển giao công nghệ, đó là một số điểm cộng khiến vũ khí Hàn Quốc càng trở nên hấp dẫn. Theo nhà nghiên cứu Bang Jong-goan: “Các sản phẩm CNQP của Hàn Quốc có hiệu quả tác chiến tương đương với các sản phẩm của Mỹ, Anh, Pháp, Đức, song giá thành lại thấp hơn”.
Lấy ví dụ, trong các cuộc thử nghiệm dưới tiết trời lạnh giá của quân đội Na Uy, một chiếc K2 Black Panther của Hàn Quốc giá 8,5 triệu USD có hiệu quả hoạt động tác chiến tương đương một chiếc xe tăng Leopard 2A7 của Đức giá 15,3 triệu USD.
Quốc gia Đông Bắc Á này cũng là nơi thử nghiệm hoàn hảo cho các loại trang bị vũ khí. Địa hình cả bằng phẳng lẫn sườn dốc, nhiệt độ các mùa dao động lớn giữa các vùng, từ mùa đông băng tuyết đến mùa hè nắng nóng khiến sản xuất vũ khí Hàn Quốc rất đa dạng, đáp ứng nhu cầu khách hàng trong mọi điều kiện địa hình và khí hậu.
Nhạy bén thị trường
Nếu sản xuất ô tô là liên tục và được điều chỉnh theo nhu cầu của người tiêu dùng thì sản xuất trang bị, vũ khí quân sự như xe tăng, máy bay chiến đấu, pháo tự hành... chỉ thực hiện khi có đơn hàng. Trớ trêu thay, trong lúc giới lãnh đạo EU còn đang mải bất đồng với các doanh nghiệp trong nước về việc liệu ngành CNQP nên đi trước hay chờ có đơn hàng rồi mới đẩy mạnh sản xuất, thì các tập đoàn CNQP Hàn Quốc đã tích cực sản xuất để vừa đáp ứng yêu cầu phòng thủ của chính Seoul, vừa mở rộng nguồn cung ra thị trường thế giới.
Nắm được tâm lý “xót của” của đối tác khi phải chi những món tiền khổng lồ mua sắm vũ khí, Seoul đã khôn khéo đề xuất hợp tác với các khách hàng để thiết lập cơ sở sản xuất và chuyển giao công nghệ ở nước sở tại, giúp họ giảm bớt phụ thuộc vào năng lực sản xuất của Seoul, giảm tải cho Hàn Quốc, mặt khác, giúp các quốc gia đối tác của Seoul củng cố năng lực sản xuất CNQP của chính họ. Những thỏa thuận chia sẻ công nghệ, hợp tác quốc phòng đã ký kết với Ấn Độ, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là, tới đây, năng lực sản xuất vũ khí của Hàn Quốc sẽ gia tăng đáng kể.
Chi tiêu quốc phòng trên toàn thế giới dự báo sẽ tăng lên trong bối cảnh căng thẳng toàn cầu hiện nay. Trên cơ sở đó, Hàn Quốc đặt mục tiêu chiếm 5% thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu vào năm 2027 và trở thành nhà xuất khẩu quốc phòng lớn thứ tư thế giới.
Tất nhiên, Hàn Quốc không phải là “tay chơi” duy nhất đang “phất lên” trên thị trường vũ khí toàn cầu. Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản và một số quốc gia khác cũng đang dồn sức tập trung phát triển ngành CNQP nhằm đối phó với môi trường an ninh toàn cầu đang thay đổi. Để đủ sức theo đuổi cuộc chơi, Seoul sẽ cần tái cơ cấu phân bổ ngân sách từ phát triển hệ thống sang nghiên cứu công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, đồng thời giảm phụ thuộc vào một số doanh nghiệp lớn.