"Tại điện Cận Thành là nơi cung điện cuối cùng của hoàng thành, một đội thị vệ đã túc trực sẵn sàng. Họ dẫn chúng tôi đến điện Cần Chánh vẫn dùng để thết đại triều. Ở bên ngoài đã có một chiếc ngự xa chờ sẵn. Tất cả các quan triều thần vận đại trào đã tập trung, để tiễn đưa cha con tôi đi xa. Các quan Tứ trụ Triều đình mặc áo gấm tía, các quan nhị phẩm mặc gấm xanh, các quan tam phẩm trở đi mặc áo thụng xám. Màu sắc lộng lẫy này đem lại chút ít tươi sáng cho buổi ban mai ẩm ướt trong mùa mưa ở Huế.
Tôi ngồi đối diện với Vua cha trên chiếc xe tứ mã này, có lính thị tập đứng phía trước và phía sau xe.
Qua sân chầu, ra cửa Ngọ Môn là cửa chính chỉ dành riêng để đương kim Hoàng đế đi qua, chiếc xe tứ mã đi chầm chậm trong sự tịch mịch hoàn toàn, chỉ có tiếng sương cô đọng ban đêm trên những tàu lá rơi tí tách, thưa trầm, đều đặn. Ra cửa Nam, qua những hồ sen, xe lên cầu Clémenseau trên sông Hương, đi về phía hữu ngạn, bây giờ mới phi nhanh. Dọc đường, dân chúng đứng hai bên tung hô vạn tuế.
Đến ga xe lửa, quan Khâm sứ Pierre Pasquier đang chờ đợi. Ông đi cùng với chúng tôi sang Pháp, có gia đình mang theo về, gồm có phu nhơn và ba đứa con. Đoàn tùy tùng khoảng mười hai người: một vị Thượng thư, một viên thông ngôn (vì hai cha con tôi đều không nói được tiếng Pháp), vài vị quan võ, thêm em họ tôi là Hoàng thân Vĩnh Cẩn cũng cùng đi.
Một toa xe lửa riêng đã dành sẵn để đưa chúng tôi tới Tourane (Đà Nẵng).
Đây là lần đầu tiên, tôi được đi xe lửa, và cũng là lần đầu tiên tôi ra khỏi kinh đô Huế, vì vậy nên tôi rất tò mò.
Bảo Đại kể về việc học hành trong cung cấm
"Đã ba tháng qua kể từ ngày cha tôi tuyên bố quyết định cho tôi sang Pháp du học. Tôi là con trai độc nhất của Người. Biết rằng Pháp là một nước tiền tiến nên Người muốn cho tôi sang thu nhận cái văn minh tiến bộ ấy để dung hoà vởi nền học vấn cổ của phương Đông.
Sau khi tham khảo ý kiến với quan Toàn quyền Long, phụ hoàng quyết định gửi tôi lưu trú tại nhà cụ Charles, cựu Khâm sứ Trung kỳ rất được quan Toàn quyền Long tín nhiệm và ngợi khen khi biết cụ ngày còn ở Huế.
Năm tôi lên hai tuổi thì cha tôi lên ngôi Hoàng đế. Khi lên năm, thì tôi không còn được ở trong cung của các bà hoàng phi, cùng với bà nội tòi, là Đức Thái hoàng Thái hậu, mà phải đưa sang phía Đông cung, gọi là Thanh cung vì màu xanh là màu của phương Đông, và cũng là màu của mùa Xuân, theo ý nghĩa của ngũ hành trong Dịch Lý.
Cung này có một buồng ngủ, một phòng khách, một phòng ăn, và dẫy nhà phụ thuộc. Vài kẻ hầu cận. Hàng ngày, viên quan phụ đạo đến dậy tôi học chữ nho, học Luận ngữ của Khổng phu tử, để học theo đạo làm người, và đạo làm Vua. Đây là một nhà Nho, một vị quan học vấn uyên bác. Ông cũng cùng đi sang Pháp để kềm tôi về môn cổ học, trong thời gian lưu trú tại Pháp".
Bảo Đại nhận xét
"Trong bốn năm liền, tôi đã sống hoàn toàn cô lập, ăn một mình, học một mình theo một chương trình đã được ấn định, ngày hôm nay không khác ngày hôm qua.
Mỗi buổi sáng, sau khi điểm tâm qua loa, ông thầy đến giảng một đoạn của sách Luận ngữ, bắt tôi học và đọc lại. Bài học chữ nho này luôn hướng vào những châm ngôn, tục ngữ, hay những ca dao rất thông thường phổ biến trong dân gian, đại để:
“Ăn quả nhớ kẻ trông cây”
“Hảo hành tắc nan, sú hành tắc dị”
“Kính bất như tuân mệnh”
Những phương châm xử thế này phản ảnh rất trung thực đời sống thực tế của con người, tạo nên quốc giáo Khổng giáo ở nước tôi. Có thể duy linh tất nhiên, vì nó hướng thiện, đưa con người vào mục đích tối cao là sự toàn thiện, toàn mỹ, những phương châm đó không phải đã không đem lại một ý niệm triết học lấy căn bản thực tế, và dứt khoát.
Chính vì vậy, dựa vào Khổng học, mà quyền hạn của nhà Vua có gốc rõ rệt, đồng thời cái quyền năng ấy cũng bị tự chế do giáo lý này đưa lại. Chỉ có thấu đáo nền Khổng học, mới có thể hiểu được hình thái gần như mâu thuẫn trong cơ cấu xã hội nước tôi. Khi học kỹ lưỡng bổn phận của bậc Đế vương, tôi mới làm tròn sứ mệnh của ngôi Hoàng đế, sứ mệnh làm Đại giáo chủ, làm Đại tư ý làm cha mẹ dân, và sứ mệnh làm thiên tử".
"Thỉnh thoảng, cha tôi đến xem tôi đã học được đến đâu. Ngài thường hỏi tôi về những điều đã học, và chỉ yên trí khi tôi đã nhập tâm rồi. Một hai lần trong tháng, tôi được phép ngồi ăn cùng Ngài. Rất hiếm khi Ngài cho tôi đỉ theo sang dinh quan Khâm sứ. Nhưng nếu có lần nào, khi Ngài bận đàm đạo với vị quan này, thì tôi rất thích thủ được vui đùa với các con của ông ta, nói tiếng Việt Nam rất sõi. Một đứa trong bọn cùng tuổi với tôi. Trong thời gian đó, chằng bao giờ tôi có món đồ chơi nào. Tuy nhiên, ngắm nhìn thiên nhiên như tôi vẫn làm hàng ngày, chính là vui chơi với toàn thể vũ trụ rồi.
Cũng như sự học của tôi, sự giải trí nào của tôi cũng nhuốm màu trung tín, qui củ và trật tự. Nhiều khi trong những dịp lễ lạc, kỷ niệm của hoàng gia, tôi có thể đến các cung cấm của các bà cung phi, hoàng hậu ở về phía bên kia cung điện của Vua cha, có bức tường kín mít che khuất. Mỗi bà phi có một cung riêng. Đức Thái hoàng Thái hậu ngự nơi tốt đẹp nhất".
Bảo Đại chua chát
"Tất nhiên, một qui chế nghiêm khắc, thiếu hoạt động, vắng thể dục, thể thao, đâu có tốt gì cho đứa bé con? Sự đó đã chứng minh là nhiều hoàng tử đã chết non chết yêu, như ông nộỉ tôi chết năm mớỉ 25 tuổi. Bào đệ của ngài chết năm 14 tuổi. Còn tôi, túy đã 9 tuổi mà chỉ cân nặng có hơn 20 kí lô.
Vì không biết các lối sống nào khác, nên cuộc sống của tôi cũng chẳng làm tôi buồn. Tôi chấp nhận các thể thức bắt buộc, mà chỉ biết có nhắm mắt thi hành. Bởi thế, tâm hồn hiếu thuận cúa tôi đối với phụ hoàng bao giờ cũng là sự tôn kính, bởi tính chất thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Ngài".
Ông thành thực
"Vì vậy, lần gặp gỡ đầu tiên đối với xã hội bên ngoài ở sân ga, nếu không làm tôi ngạc nhiên, thì cũng buộc tôi phải tò mò".
Bảo Đại kể chuyến đi cùng cha
Đoạn đầu đi mất ba giờ (bằng xe lửa). Phong cảnh gợi màu hoài cảm. Cành cây thấp la đà mặt nước, những con trâu đứng dưới ruộng cày, nước đến khuỷu chân, hếch mũi ướt nhìn trời. Cò, le, bay loáng trên những bụi ven sông. Đồng quê man mác ảo huyền thơ mộng.
Tàu qua nhanh vịnh Phú Án, trước khi len lỏi giữa các sườn núi dựng như thành của rặng Trường Sơn. Đường xe lửa tách rời quan lộ, chui vào các đường hầm xuyên sơn, như con rồng sắt nhả khói, khạc lửa. Đây đã tới đèo Hải Vân, và đổ xuống Tourane. Chúng tôi xuống chiếc tàu nhỏ duyên dáng 7.000 tấn, tàu Claude Chappe, thường xuyên đi lại giữa Hải Phòng và Sài Gòn.
Cả một ngày, tàu chạy ven bờ biển miền Trung, rất gập ghềnh của núi non nhô ra thụt vào về bên phải và người ta nhận được rõ ràng đường xe lửa cũng như đường quan lộ số 1. Cồn cát, mũi, cù lao, bãi biển liên tiếp kéo dài. Qua Qui Nhơn, đến mũi Varella, núi nhè nhẹ thấp dần, rồi đến Vũng Tàu, từ đó chúng tôi vào sông Sài Gòn để đến thủ đô của Nam kỳ.
Chúng tôi nghỉ ngơi ở dinh Thống đốc, trong nhà quốc khánh. Nghỉ ở đó hai ngày thì đáp tàu Porthos của hãng Messagerie Maritimes sang Pháp. Tôi ngủ chung một ca-bin với Hoàng để Vĩnh Cẩn, Về sau Hoàng đệ Cẩn bị say sóng và mệt mỏi nhiều lần trong khi đi đường. Còn tôi, không bao giờ bị say sóng cả.
Nghỉ ở nhiều chặng. Đến Singapour, chúng tôi thăm thành phố bằng xe ngựa. Tôi trông thấy người Mã Lai lần đầu tiên. Đến Colombo, người Ấn Độ không làm tôi ngạc nhiên, họ ăn trầu như các phụ nữ Huế. Rồi Djibouti, Ismaklia. Tôi chẳng biết tí gì về đoạn đường mà tôi phải đi qua, vì không có một bản đồ ò dưới tay. Tuy nhiên, có một sự lạ lùng mà tôi được mục kích: đó là núi lửa Stromboli đang phun. Trước đây, tôi không biết gì về núi lửa cả…